Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN THÀNH















MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO
 HỌC SINH LỚP 3




                                 
Môn:          Toán
Tác Giả:    Nguyễn Thị Hoài           
Tổ chuyên môn:    1,2,3
Năm thực hiện:     2024-2025
                           Số điện thoại:       0366067577






                                         Yên Thành tháng 3 năm 2025
 
 I . MỞ ĐẦU
 Tiếng Việt là môn khởi đầu, đồng thời cũng là công cụ học tập không chỉ trong nhà trường mà còn trong cuộc sống nói chung. Trước hết, phân môn Tập đọc giúp cho học sinh rèn kĩ năng đọc đúng, ngắt giọng, nhấn giọng, đọc diễn cảm một bài văn, khổ thơ làm tiền đề cho việc tìm hiểu bài. Các quá trình đó có liên quan mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được tri thức văn hóa của dân tộc, tiếp thu nền văn minh của loài người thông qua sách vở, biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Qua hoạt động học, tình cảm thẩm mĩ của các em được nâng cao tầm hiểu biết để nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức của các em có chiều sâu hơn. Đọc đúng, đọc hay cũng là kĩ năng của ngôn ngữ văn học. Qua đó có tác dụng giáo dục tình cảm, đạo đức cao đẹp cho người học sinh. Đồng thời phát huy óc sáng tạo và khả năng tư duy như quá trình phân tích tổng hợp cho các em. Mặt khác, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc cho học sinh. Đọc là một hoạt động của lời nói, là quá trình chuyển dạng chữ viết sang lời nói âm thanh, là quá trình chuyển tiếp hình thức chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm thanh.
         Với học sinh lớp 3 các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng dẫn, đọc đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát trôi chảy. Cùng với chương trình thay sách tôi đã và đang từng bước thực hiện nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt trong đó có có phân môn Tập đọc. Từ đó người giáo viên thấy rõ và xác định được việc dạy học tập đọc cho học sinh Tiểu học nói chung học sinh lớp 3 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết. Chúng ta phải làm thế nào để thông qua phân môn tập đọc giúp học sinh không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của văn bản và các thể loại từ văn xuôi đến thơ ca . Giáo viên phải tìm phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với bài đó, thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái độ tự nhiên thông qua giọng đọc.
          Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 3 tôi thấy được quá
trình dạy đọc đúng cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Đối với học sinh lớp 4-5 việc đọc diễn cảm và đọc đúng đã là vấn đề khó thì đối với học sinh lớp 3 nói riêng lại càng khó hơn nhiều. Nhưng nếu được quan tâm rèn luyện đọc thì các em sẽ đọc tốt.
 Thực tế khảo sát chất lượng phân môn tập đọc đầu năm của học sinh cho ta thấy học sinh phát âm còn ngọng, hay sai phụ âm đầu , vần và dấu thanh. Học sinh thường phát âm sai phụ âm : l, n, ch, tr và các thanh hỏi – ngã , đọc bài chưa biết ngắt nghỉ dấu chấm, dấu phẩy trong một bài văn, bài thơ.
 Giáo viên dựa trên hướng dẫn của sách giáo khoa để tổ chức lớp bằng phương thức giáo viên hỏi - học sinh trả lời. Chính vì vậy mà đã bộc lộ nhiều nhược điểm trong việc quản lí lớp cũng như khả năng kích thích hứng thú học tập của học sinh tham gia tìm hiểu xây dựng bài. Đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh còn hạn chế, và sau một giờ, một bài, học sinh ít có khả năng đọc hay, diễn cảm và hiểu nội dung bài một cách đầy đủ. Học sinh không quan tâm tới phương pháp đọc của mình. Do đó, các em rất yếu về năng lực đọc.
  Chính vì vậy, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi rất băn khoăn những vấn đề tồn tại trên, với mong muốn nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm giúp học sinh biết đọc đúng, hay, có khả năng kể chuyện, giao tiếp tốt, viết đúng chính tả, viết được những bài văn có đủ ý, trọn câu và ngày càng hứng thú đọc sách .
        1. Lý do chọn biện pháp.
        Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.
 Bởi vậy, nâng cao năng lực đọc cho học sinh nhất là đọc đúng, đọc diễn cảm là hết sức cần thiết đối với giáo viên ở bậc Tiểu học.
 Dạy tốt phân môn Tập đọc còn tạo cho học sinh một nền tảng vững chắc để học tốt môn Tiếng Việt và tất cả các phân môn khác. Có đọc đúng, đọc trôi chảy mới cảm thụ được bài văn và đọc đúng sẽ hiểu tất cả các văn bản khác. Nhưng năng lực này không phải tự nhiên mà có, mà phải từng bước hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên.
 Tập đọc là một phân môn thực hành, nhiệm vụ quan trọng nhất là hình thành những năng lực đọc cho học sinh từ 4 yêu cầu về chất lượng “đọc”: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và bước đầu biết đọc diễn cảm. Cụ thể:
+ Đọc đúng, đọc nhanh là đọc lưu loát, trôi chảy.
+ Đọc có ý thức là đọc thông, hiểu được nội dung.
+ Bước đầu biết đọc diễn cảm là ngắt, nghỉ hợp lí, giọng đọc phù hợp với từng nội dung, câu đọc, bài đọc, thể hiện nội tâm trong từng lời nói nhân vật .
 Phân môn tập đọc còn hình thành ở các em phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, giúp các em thấy được lợi ích của việc đọc trong học tập và cuộc sống.
1,1. Vai trò của biện pháp:
            Kỹ năng đọc là một trong những yếu tố quan trọng giúp học sinh tiếp thu kiến thức và phát triển tư duy. Đối với học sinh lớp 3, việc rèn luyện kỹ năng đọc không chỉ giúp các em đọc lưu loát mà còn nâng cao khả năng hiểu nội dung văn bản. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều học sinh lớp 3 vẫn gặp khó khăn trong việc đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm.
Từ việc “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh” đã đem lại nhiều tiến bộ rõ rệt và niềm hứng thú cho học sinh học tập không những ở phân môn tập đọc mà nó đem lại kết quả tốt ở tất cả các môn học khác. Bên cạnh đó cũng được Ban giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp và phụ huynh đồng lòng ủng hộ, các em có hứng thú đọc sách, yêu thích học môn tập đọc hơn . Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Phát triển ngôn ngữ và tư duy .Giáo dục tư tưởng, đạo đức, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
 1,2. Thực trạng
  • Khuyết điểm:
              Một số giáo viên, phân bố thời gian trong tiết dạy chưa hợp lí, thời gian dành cho luyện đọc còn ít, thời gian dành cho tìm hiểu bài nhiều hơn. Cách thức tổ chức luyện đọc còn tẻ nhạt, chưa tạo ra những “điểm mới” trong cách luyện đọc, việc vận dụng nguyên tắc dạy học “Học mà chơi, chơi mà học” còn chưa thực sự hiệu quả ,các em khi học rất dễ nhớ nhưng cũng rất nhanh quên. Giáo viên chưa hệ thống được lỗi sai của học sinh để tìm biện pháp sửa lỗi cho các em. Việc sửa lỗi cho học sinh chưa kiên trì, xuyên suốt tiết dạy Tập đọc, chỉ sửa lỗi cho học sinh trong lúc luyện đọc câu, mà chưa chú ý sửa lỗi khi đọc đoạn, bài, khi đọc lại hoặc khi luyện đọc thuộc lòng. Một số giáo viên giọng đọc còn chưa đúng mẫu, chưa diễn cảm, phát âm lệch chuẩn... vì thế chất lượng dạy Tập đọc chưa đạt như mong muốn.
- Một số phụ huynh do điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên chưa thưc sự quan tâm tới việc học tập của các em như : đầu năm chưa sắm đủ sách vở , đồ dùng học tập cho con em.
        Một số em bố mẹ đi làm ăn xa con cái ở nhà với ông bà đã già nên cũng rất khó khăn trong việc bày cho các em học tập ở nhà mà chủ yếu là cô giáo dạy ở lớp và về nhà các em tự học tập ở nhà
- Tinh thần, thái độ học tập của các em còn yếu, do đặc điểm tâm lí của trẻ  8-9 tuổi các em rất hiếu động, khả năng tập trung chưa cao. Trong khi đó để cho học sinh đọc đúng cách ngắt giọng, nhấn giọng, diễn cảm đòi hỏi nhiều ở tính kiên trì, nhẫn nại chịu khó.
          Đa số học sinh đọc chưa lưu loát,  một số em còn đánh vần, chưa ý thức được
thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm, đọc  trong nhóm. Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị bài ở nhà trước khi đến lớp. Khả năng ngôn ngữ của các em còn yếu, tư duy của các em chưa cao. Các em thường phát âm lẫn các phụ âm đầu, vần, thanh. Phần đông gia đình ít quan tâm, các em chưa tự tin, mạnh dạn trong tŕnh bày ý kiến của minh ,một số em khả năng giao tiếp kém, tiếp thu bài còn chậm, có thái độ thờ ơ.
          -  Hạn chế :
        Qua khảo sát, điều tra và thực tế dạy trên lớp tôi thấy kĩ năng đọc đúng, hay của học sinh còn yếu. Các em học bài một cách thụ động, học một cách bắt buộc, Khi đọc một số văn bản không ngắt nghỉ hơi đúng chỗ nên các em không nắm được điều gì là cốt yếu trong bài văn , bài thơ . Điều này sẽ gây khó khăn trong việc hình thành kĩ năng giao tiếp.
          Một thực tế nữa là hiện nay trong lớp học thường có hai đối tượng học sinh có hoàn cảnh khác nhau đó là: Các em sinh ra trong gia đình ít con , điều kiện kinh tế ổn định được quan tâm chăm sóc chu đáo .Một số em sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn như: Khu dân cư chủ yếu là giáo dân. Gia đình đông con, bố mẹ bỏ nhau, ở với ông bà, cô, dì , chú bác ....bố mẹ đi làm ăn xa nên ảnh hưởng không nhỏ tới học tập của các em.
           Học sinh ít đọc sách, chưa có thói quen say mê đọc sách. Nếu có đọc thì học sinh cũng chưa biết cách đọc, chỉ đọc qua loa, đại khái, đọc cho có cho xong mà không chịu tìm hiểu.
             Địa bàn thuần nông, thời gian đi làm nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ bảo cho con cái. Các em ngoài việc học văn hoá ở trường thì còn có nhiệm vụ học giáo lý ở nhà thờ. Mặt khác, năng lực các em không đồng đều, vốn giao tiếp còn hạn chế..
            - Khảo sát việc học môn Tập đọc của học sinh lớp 3 đầu năm.
* Kết quả khảo sát:

Lớp
 

 số
 Luyện phát âm
Ngắt giọng
 
Đọc lưu loát,     trôi chảy Đọc lưu loát ,trôi chảy biết nhấn giọng
Đúng Chưa đúng Đúng Chư­a đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
3C 37 21 56.8 16 43.2 16 43.2  21 56.8 14 37.8 23 62.2  17 46 20 54
         
       Xuất phát từ những lí do, thực tế nêu trên nên việc nghiên cứu và đề xuất “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3 ” là hết sức cần thiết.
       2 . Mục tiêu
          Thực hiện biện pháp này nhằm mục đích phát triển vốn từ của học sinh
thông qua việc kết hợp hai kỹ thuật chính là công đoạn và đọc mở rộng. Kỹ
thuật công đoạn giúp rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ chính xác hơn, trong khi kỹ thuật đọc mở rộng giúp mở rộng kiến thức và vốn từ vựng thông qua việc đọc và hiểu các đoạn văn, văn bản từ các môn học khác nhau .Trong chương trình Tiếng Việt lớp 3, bao gồm: Chia sẻ và đọc, Tự đọc sách báo, Viết, Nói và nghe, Đọc, Góc sáng tạo, Tự đánh giá. Phân môn Đọc giúp học sinh phát triển và nâng cao kỹ năng đọc hiểu văn bản, giúp các em phát triển ý văn thông qua các văn bản đã đọc hiểu. Bên cạnh đó việc phân môn Đọc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện khả năng phân tích, suy luận, cải thiện tư duy logic khi luyện đọc.

3 . Đối tượng nghiên cứu.
       Đối tượng tác động là một số giải pháp, mức độ hạn chế của học sinh về các kĩ năng đọc. Học sinh lớp 3 tại một số trường tiểu học.
II . NỘI DUNG, CÁCH THỰC HIỆN.
Để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3 tôi đã thực hiện các biện pháp sau :
  1. Luyện phát âm, ngắt giọng, nhấn giọng.
  • Luyện phát âm
          Muốn học sinh đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm người giáo viên phải giúp các em phát âm chuẩn, đọc đúng loại câu, đúng ngữ điệu câu. Giúp các em tự hiểu nội dung bài, xác định đúng loại câu, ngữ điệu, giúp các em phải biết đặt mình vào vị trí của nhân vật, của tác giả. Ngoài ra còn phải biết cách tổ chức một giờ học nhẹ nhàng, sinh động. Xây dựng phong trào thi đua đọc đúng, đọc hay, ngoài ra kết hợp với việc rèn đọc trong tất cả các môn học khác giúp các em tích cực hoá việc học môn Tiếng Việt. Đặc biệt là học sinh nông thôn khi nói và đọc đều mắc một sai lầm là đọc ngọng, thiếu dấu, đọc, nói lẫn giữa phụ âm đầu là l- n hoặc với những tiếng có phụ âm quặt lưỡi như s - x; r-d; ch - tr đều đọc cố nhấn để phát âm cho rõ nên làm mất cái hay, cái tự nhiên khi đọc. Điều này làm cho các em cảm thấy xấu hổ mất tự tin khi đọc, hạn chế việc đọc của các em mất đi sự hứng thú với môn học này. Mà quy trình dạy tập đọc theo hướng đổi mới của lớp 3 như chúng ta đều nắm được gồm các bước chính sau:
               + Luyện đọc đúng
               + Tìm hiểu nội dung
               + Luyện đọc nâng cao (rèn đọc trôi chảy, lưu loát ,biết nhấn giọng).
 Chính vì vậy khi dạy Tập đọc chúng ta phải chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp mình và khi dạy học chúng ta phải phụ thuộc vào trình độ của học sinh, phải hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc chưa tốt, đọc còn ngọng, sai và ấp úng thì giáo viên phải dừng lại ở bước 1 là luyện đọc đúng. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt rồi thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao (bước 3). Động viên các em và giao nhiệm vụ cho cả lớp cùng giúp bạn bằng cách không trêu ghẹo, đùa mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa.
           Qua tìm hiểu tôi thấy đại đa số các em đọc ngọng là do các nguyên nhân sau:
 Do môi trường sống (nhiều hơn) . Do bộ máy phát âm (ít hơn).
 Do phương ngữ (một số em ở miền nam về).
     Chính vì vậy để sửa cho các em đọc đúng người giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo cho nên người giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng lời lẽ của mình. Đồng thời phải giải thích cho học sinh cùng lớp để các em cùng giúp bạn sửa chữa.
     * Cách sửa đọc ngọng cho học sinh:
     Trước hết giáo viên phải nắm chắc được nghĩa của các từ có phụ âm hay đọc ngọng  như l- n để định hình được lời nói và chữ viết. Giáo viên cần xem lại phương thức phát âm phụ âm đầu l- n và tự mỗi giáo viên phải luyện bằng thời gian dài  và phải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi cong, luồng hơi đi ra bị cản. Ví dụ những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại.
    Những tiếng có âm quặt lưỡi như s - x; r - d- gi; tr- ch thì hướng dẫn các em nói tự nhiên cho hay, (không cố gắng đọc nhấn). Nhưng trong Tiếng Việt có phụ âm đầu là r (là phụ âm quặt lưỡi) thì chúng ta đọc không rung.
     Ví dụ: Như từ: ra vào, rang lạc, rực rỡ, rung rinh. Giáo viên đọc rung những tiếng là tiếng nước ngoài ,ví dụ: Ra đi ô,
     Ngoài việc sửa chữa trong mỗi tiết Tập đọc và các môn học khác, thì cuối mỗi buổi học tôi còn giao những bài tập đọc nhỏ để học sinh tự luyện đọc ở nhà và về nhà đọc trước bài của ngày hôm sau. Hàng ngày kiểm tra về cách đọc của học sinh và nhận xét. Qúa trình này tôi thực hiện thường xuyên và  luôn khuyến khích các em.
     -  Luyện đọc ngắt giọng.
     Qua điều tra thực tế tôi thấy ở học sinh lớp 3 nói chung chưa biết cách đọc ngắt giọng. Để học sinh biết ngắt giọng trong khi đọc, trước hết phải hướng dẫn các em đọc đúng. Từ việc đọc đúng đó sẽ hướng dẫn các em đọc đúng  cách ngắt giọng.
Ví dụ: Dùng một gạch xiên ( / ) đánh dấu ngắt; hai gạch xiên ( // ) đánh dấu chỗ nghỉ và gạch chân từ ngữ cần nhấn giọng ở đoạn văn ,câu thơ.
                                      Nắng vẫn đầy trời/
                                      Vàng sân/ vàng lối//
                                   ( Giặt áo - Tiếng Việt 3 tập 1)
           Khi đọc các bài văn xuôi cũng vậy, việc ngắt giọng phải phù hợp với dấu câu. Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm .....
          -  Luyện đọc nhấn giọng.
          Qua việc giảng dạy và thực tế trên lớp, để giúp  học sinh đọc diễn cảm, đọc nhấn giọng người giáo viên cần phải thực hiện các nội dung sau:
          Chuẩn bị kĩ cho việc dạy nhấn giọng.
          Tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy để hiểu rõ và cảm thụ sâu sắc bài, giúp học sinh đọc có hiệu quả hơn.
          Bài đọc trong sách giáo khoa của giáo viên cần ghi vắn tắt cách đọc, cách ngắt nhịp, cách nhấn giọng, sắc thái tình cảm đọc.
          Ví dụ : Bài: “Cha sẽ luôn bên con” (Tiếng Việt 3- tập 1 trang 49)
          Đọc chậm rãi nhẹ nhàng,xúc động diễn tả hình ảnh về người cha, nhấn giọng ở các từ ngữ thể hiện tình cảm của hai cha con.
          Trong từng bài giáo viên sẽ dự tính những lỗi học sinh sẽ mắc, giọng đọc cả
bài, đoạn cần nhấn mạnh, tốc độ đọc.
          Giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy học. Phương tiện trực quan chủ yếu trong giờ Tập đọc là bài đọc và ngôn ngữ của giáo viên. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng triệt để sách giáo khoa để học phân môn Tập đọc đạt kết quả tốt. Đồ dùng dạy học thông thường trong tiết Tập đọc là tranh mẫu  và một số vật thực mô hình để giảng từ và ý. Ngoài ra giáo viên cần chuẩn bị bảng phụ để ghi nội dung bài, ý, câu thơ cần luyện đọc. Tuy nhiên khi lên lớp còn có nhiều tình huống mới mẻ cần xử lý. Song theo tôi sự chuẩn bị của giáo viên càng chu đáo thì lên lớp sẽ chủ động và sáng tạo hơn rất nhiều, giờ dạy sẽ đạt kết quả hơn mong đợi.
               Trong khâu luyện đọc, tôi tiến hành theo hai bước:
           - Luyện đọc theo câu, đoạn: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các câu, đoạn tôi tiến hành cho học sinh đọc ngay, điều này có tác dụng hình thành cách đọc diễn cảm sát với nội dung bài vừa đề cập. Với những câu, đoạn khó, giáo viên cần gợi ý cho học sinh xác định đọc câu, đoạn văn đó và yêu cầu học sinh đọc diễn cảm .
          Với những câu có nhiều cách đọc, giáo viên nêu vấn đề cho nhiều em nêu ra cách đọc và giúp các em nhận ra cách đọc đúng, đọc diễn cảm (đọc ngắt giọng, đọc nhấn giọng).
         Đọc toàn bài - đây là bước thực hiện sau khi học sinh đã đọc theo từng đoạn.
Đọc toàn bài giúp học sinh cảm thụ một cách tổng thể sắc thái của nội dung tác phẩm. Ở bước này giáo viên cần động viên khuyến khích cách đọc biểu lộ tình cảm riêng, tích cực trong đổi mới phương pháp giáo dục dạy học.
          Ngoài những biện pháp trên người giáo viên có thể kết hợp nội dung luyện đọc lồng ghép với trò chơi như: Thả thơ, truyền điện, chạy tiếp sức.     
          2. Luyện đọc lưu loát, trôi chảy ,nhấn giọng:
          Muốn rèn cho các em bước đầu biết đọc diễn cảm thì trước hết phải rèn cho các em đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng đã. Bước đầu biết đọc các văn bản sao cho giọng điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản.  Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu.
Khi đọc giáo viên phải lưu ý học sinh đọc nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm . Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật.
    - Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong đoạn văn hoặc văn bản.
    * Tập đọc là một môn học mang tính chất tổng hợp, vì ngoài nhiệm vụ dạy đọc nó còn có nhiệm vụ trau rồi kiến thức về Tiếng Việt. Tôi đã thông qua tiết tập đọc để rèn  đọc cho học sinh theo các bước sau :
Ví dụ : Bài "Chú gấu Mi-sa" (Tiếng Việt lớp 3 tập 1 )
a . Luyện đọc.
    * Rèn kĩ năng đọc - Luyện đọc câu (đọc đúng).
    + Đọc mẫu: - GV đọc mẫu, giới thiệu tác giả, thể loại của bài - Nhắc nhở học sinh tư thế đứng đọc, cầm sách cách tầm mắt 25- 30cm.
- Hướng dẫn đọc.
- Đọc kết hợp giải nghĩa từ.
+ Đọc câu: - Cho HS đọc nối tiếp câu (lần 1)
                                        Học sinh nối tiếp luyện đọc câu
 - GV ghi lên bảng những lỗi sai phổ biến.
 - Luyện phát âm  cho HS đọc ĐT, CN những từ dễ đọc sai gv đã ghi ở bảng    
GV ghi các từ khó lên bảng cho hs đọc cá nhân (ưu tiên những em đọc hay mắc lỗi).
 - Sau khi đã đọc các từ khó cho học sinh đọc nối tiếp lần 2
 + Đọc đoạn: - Chia đoạn.
 - HS đọc nối tiếp đoạn
 - GV hướng dẫn cách đọc, giọng đọc câu dài , đoạn cách ngắt nghỉ
  - Cho HS đọc nối tiếp đoạn lần 2 kết hợp giải nghĩa từ, ghi bảng từ mới
 Sang học kì 2 tôi giảm phần đọc câu và  tăng đọc đoạn cho học sinh.
 * Đọc trong nhóm:
 - GV chia nhóm: Đọc nối tiếp đoạn trong nhóm theo số đoạn trong bài.
 - Cho HS thi đọc, nhận xét, bình chọn.
Học sinh luyện đọc từ khó trong bài
* Đọc đồng thanh:
- GV chọn  đoạn 2 cho HS đọc
- Một em đọc toàn bài .
b. Đọc hiểu: - 1 HS đọc 4 câu hỏi trước lớp.
- HS suy nghĩ chia sẻ trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài.
   * Luyện đọc lại : 2- 3  học sinh đọc thi toàn  bài
c. Củng cố dặn dò:
Giáo viên giúp học sinh liên hệ: từ bài đọc Chú gấu Mi-sa, các em cần rút ra bài học cho mình: Gấu bông Mi-sa nhân hậu, tốt bụng , biết mang lại niềm vui cho cậu bé nghèo đang bị ốm. Giáo viên  nhận xét tiết học.
           Không những rèn kỹ năng đọc cho học sinh trong giờ tập đọc mà tôi còn có thể rèn học sinh đọc trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ , HĐTN ...
          Giáo viên  cùng học sinh đọc sách, báo 15 phút đầu giờ.
 3 . Rèn kĩ năng nhận diện nhiều chi tiết, sự kiện có sẵn trong bài, từ đó tạo ra câu trả lời phù hợp với mục đích, yêu cầu câu hỏi đề ra .
         Đây là một kĩ năng đọc bộ phận quan trọng cần rèn cho học sinh tiểu học vì 2 lí do:   
(1) Phù hợp đặc điểm nhận thức của học sinh lứa tuổi nhỏ.
(2) Góp phần hình thành cho học sinh năng lực quan sát, năng lực chọn lựa thông tin theo mục đích, theo phương hướng đã định.
Thực vậy, trong tiến trình đọc văn bản, sau khi hiểu nắm bắt yêu cầu của câu hỏi hay bài tập, học sinh lướt mắt trên bài đọc, định vị phạm vi bài chứa thông tin liên quan đến yêu cầu câu hỏi, sau đó các em xem xét. Xác định chi tiết sự kiện liên quan trực tiếp đến câu hỏi rồi sắp xếp ngôn từ trả lời. Việc rèn kĩ năng này giúp các em không rơi vào tình trạng trả lời “bao vây” hoặc “đánh úp” bằng cách đọc nguyên văn cả đoạn hoặc cả phần của bài đọc chứa đựng chỉ vài chi tiết liên quan đến câu hỏi ấy.
Câu trả lời thế này bao hàm cả ý cần thiết và những ý không cần thiết cho câu trả lời. Lối trả lời bao vây thế này tạo thói quen trả lời lan man, xa yêu cầu câu hỏi. Trên thực tế dạy học tập đọc, những trường hợp thế này thường xảy ra khi học sinh tìm hiểu bài và trả lời câu hỏi liên quan đến nhiều chi tiết sự kiện khác nhau trong bài. 
Sự dễ dàng chấp nhận những câu trả lời kiểu nguyên văn “gần đúng ý” như trên không giúp học sinh thực sự hiểu bài, đồng thời cũng không tạo điều kiện cho học sinh rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, và sử dụng Tiếng Việt. Cho nên đối với giáo viên, điều quan trọng ở đây là sự hướng dẫn nhận diện xác đáng các chi tiết theo yêu cầu cụ thể của câu hỏi. Học sinh sẽ trả lời đúng ý câu hỏi, thay vì trả lời bao vây .
4 .  Mở rộng môi trường giao tiếp, tạo hứng thú học tập cho học sinh   
- Biện pháp mở rộng môi trường giao tiếp cho học sinh cũng góp phần nâng cao kĩ năng đọc, kĩ năng giao tiếp cho học sinh: việc tổ chức trò chơi hay khởi động trước khi vào bài học mới hay vào giờ giải lao sẽ giúp các em nắm được bài  lâu hơn và tạo hứng thú trước khi vào bài học mới. 
- Muốn học tốt bất kì  môn học nào, trước hết phải có hứng thú với môn học đó. Do vậy cần tạo hứng thú cho học sinh trong sửa lỗi phát âm, bằng cách tổ chức trò chơi học tập cho học sinh. Việc này không những giúp cho các em nhớ bài mà còn để phát triển ngôn ngữ cho các em.
- Ngoài ra để tạo hứng thú cho các em tránh sự nhàm chán đơn điệu trong bài học thì tôi sử dụng phương pháp “thi đua” vào tiết dạy một cách hợp lý. Vậy nên phương pháp học tập này đóng vai trò khá quan trọng trong việc đem lại hiệu quả cao cho một tiết học. Thông qua hình thức học tập này, học sinh sẽ phát huy hết khả năng của mình, từ đó kích thích những học sinh khác có tinh thần tự học, sự hưng phấn trong học tập được nhân lên nhiều lần, giảm bớt được sự uể oải, thiếu tập trung ở một số bộ phận học sinh.
 5 . Rèn kĩ năng nắm các ý (từ khóa, câu khóa) và sắp xếp thành dàn ý:
Kĩ năng nhận diện các ý của bài đọc và sắp xếp chúng thành dàn ý có tác dụng giúp học sinh hiểu và nhớ những đặc điểm chủ yếu của bài.
Kĩ năng này được thực hiện đan xen, lồng ghép với kĩ năng nhận diện chi tiết, sự kiện có sẵn trong bài phù hợp với mục đích, yêu cầu câu hỏi đề ra. Những câu hỏi hay bài tập liên quan đến kĩ năng nhận diện chi tiết, sự kiện thường đề cập đến những chi tiết quan trọng. Tiến trình này có thể được thực hiện như sau:
- Sau khi học sinh tìm ra được từ khóa, câu khóa, đề nghị học sinh đánh số thứ tự các chi tiết quan trọng ấy.
- Lưu ý học sinh dấu hiệu ngắt đoạn. Các từ khóa câu khóa trong một đoạn thường thể hiện cùng một ý.
- Học sinh liệt kê các chi tiết hay từ khóa, câu khóa theo trật tự bài.
- Học sinh nhóm các chi tiết của một đoạn.
- Cuối cùng giúp học sinh nhận diện lại: các ý chính, mỗi ý chính với chuỗi các chi tiết trong một đoạn.
Dạng kĩ năng này nếu được thực hiện tốt, sẽ tạo điều kiện cho học sinh học tốt cả kể chuyện và tập làm văn trong những năm học sau.
 6 . Rèn luyện cách hiểu bài từ “Kĩ năng hiểu nghĩa từ trong văn bản đọc” cho học sinh: 
Hiểu từ là bước để học sinh hiểu câu. Hiểu câu là bước để học sinh hiểu ý của đoạn. Hiểu đoạn là bước để học sinh hiểu bài. Do vậy, hiểu từ là bước quan trọng trong dạy đọc hiểu. Nhiều từ khó cần tìm hiểu trong một bài học đã được chú thích trong sách giáo khoa .
a) Cách sử dụng phần chú thích về nghĩa từ trong sách giáo khoa:
Một vấn đề đặt ra ở đây là nên sử dụng phần chú thích nghĩa của từ trong sách giáo khoa thế nào cho hiệu quả. Trong nhiều tiết dạy tập đọc, giáo viên thường giúp học sinh hiểu từ bằng cách để các em đọc chú thích, để các em nhắc lại nghĩa từ nhưng không đưa từ ấy vào ngữ cảnh của văn bản thì chỉ giúp học sinh nhận biết nghĩa từ chứ chưa thực sự hiểu nó. Cần xác định hiểu không đơn giản là nghe tiếp nhận, hay nhìn sách rồi nhắc lại. Hiểu từ là tự mình giải thích được từ ấy, rồi vận dụng điều mình giải thích vào việc nắm bắt nội dung văn bản đọc. Về lâu dài hiểu rõ ràng các từ như thế giúp học sinh có thề sử dụng chúng một cách thích hợp trong những ngữ cảnh khác nhau. Từ đó góp phần cho học dùng từ thích hợp khi viết đoạn văn.
b) Phân loại các dạng từ mà học sinh cần hiểu và cách thức tổ chức cho học sinh hiểu nghĩa các dạng từ ấy:
+ Từ không thể hiểu bằng ngữ cảnh và học sinh cũng chưa hề có kinh nghiệm nào liên quan: Đó là những từ đề cập đến sản vật địa phương, địa danh, sự kiện lịch sử.
Cách giúp học sinh hiểu ý nghĩa là dùng tranh, vật thật, phim ảnh hoặc lời giải thích cụ thể sinh động của giáo viên.
+ Từ có thể hiểu bằng ngữ cảnh (liên quan đến trạng thái tinh thần, cảm xúc...) nhưng học sinh có vẻ chưa có trải nghiệm liên quan
Ví dụ: Băn khoăn, bâng khuâng, bàng hoàng, do dự, quyết định,...
Giáo viên nêu ví dụ là một câu chuyện, một tình huống,.. để học sinh hiểu nghĩa từ. Từ ví dụ mình đưa ra, giáo viên đề nghị học sinh nói ý nghĩa câu chứa từ mình mới giải thích để xem học sinh đã hiểu từ ấy chưa, và cũng như hiểu ý câu, đoạn chưa.
Ví dụ giải nghĩa từ : lắt lẻo ; lặng lờ , trong bài  Sông quê (TV 3 tập 2)
Học sinh quan sát hình ảnh sau để hiểu và nêu đúng nghĩa của từ.
Quan sát tranh em hiểu lắt lẻo nghĩa là gì ? Thế nào gọi là lặng lờ ?
Lắt lẻo : đung đưa trên cao ; Lặng lờ : hoàn toàn yên lặng, không tạo ra tiếng động.

Đối với dạng từ này, giáo viên tổ chức cho học sinh nêu ví dụ để chứng tỏ ngữ cảnh sử dụng từ đó. Với cách này, giáo viên tạo cho học sinh cơ hội liên hệ hoặc vận dụng những kinh nghiệm của  mình để hiểu ý câu chứa từ ấy.
Cách thứ hai để hiểu ý của từ thuộc dạng này là cho học sinh tìm từ thay thế hay đặt câu với từ đang tìm hiểu rồi đề nghị học sinh nói ý câu chứa từ ấy.
Tuy nhiên nên hạn chế tìm từ thay thế (từ đồng nghĩa) với học sinh đầu cấp vì vốn từ các em chưa nhiều.
+ Từ khóa, từ có ý nghĩa khái quát nội dung của văn bản đọc
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giải thích ý nghĩa chung (nêu trong chú thích) rồi vận dụng, xâu kết các chi tiết trong bài để chứng minh cho giải nghĩa ấy. Nói cách khác, giáo viên phải giúp học sinh kết hợp giải nghĩa từ với tìm hiểu ý đoạn, bài.
+ Đối với những từ ý tại ngôn ngoại trong văn bản, đặc biệt là thơ. Giáo viên
giúp học sinh hiểu nghĩa từ bằng nhịp điệu tiết tấu qua giọng đọc diễn cảm hoặc bằng
cách dựa vào ngữ cảnh.
Nói tóm lại dù hướng dẫn học sinh hiểu từ bằng cách nào thì cũng phải :
(1) Gắn ý nghĩa từ ấy với văn bản đọc (câu, đoạn chứa từ ấy).
(2) Lượng từ cần giải nghĩa không quá nhiều, vì đặc điểm hoạt động của “trí nhớ làm việc” lúc học đọc rất hạn chế. Trong một giây, người đọc trung bình chỉ có thể nhận ra và lưu giữ trong trí nhớ làm việc không quá năm từ.
(3) Tạo điều kiện cho học sinh tự khám phá bằng cách nhìn lại và vận dụng kinh nghiệm của mình.
(4) Xem hiểu từ là phương tiện để giúp học sinh hiểu văn bản đọc.
 7 . Hướng dẫn chi tiết khi luyện đọc hiểu:
Để hiểu được nội dung bài đọc thì giáo viên cần triển khai hiệu quả việc đọc thầm của học sinh. Vì vậy, vấn đề đọc thầm của học sinh chính là việc học có ý thức, còn đọc hiểu chỉ là kết quả đọc thầm. Giáo viên cần phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài, tức là tất cả những gì được đọc thì học sinh mới hiểu bài đọc. Bắt đầu từ việc giải nghĩa từ. Ngoài những từ khó của bài, giáo viên còn phải phụ thuộc vào năng lực học sinh để lựa chọn từ cần giải nghĩa. Chính giáo viên phải là người đọc nhiều, tự tìm tòi tự tập giải nghĩa nhiều để có “vốn”, có hiểu biết về từ để giải thích cho phù hợp. Đồng thời,giáo viên cần phải dự kiến những tình huống để sẵn sàng giải đáp cho học sinh về bất cứ từ nào trong bài mà em yêu cầu. 
Để phát huy được phần đọc thầm hiểu được từ cần nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh không phải xem tất cả các từ đều quan trọng như nhau mà cần chọn lựa các từ quan trọng gạch chân để giữ lại làm các từ “chìa khóa”, những từ mang ý nghĩa cơ bản, trọng tâm. Từ đó giúp  ta hiểu được nội dung của cả bài. 
Cần chú ý đến việc hướng dẫn học sinh phát hiện ra những câu quan trọng của bài, những câu nêu ý chung của bài, học sinh cần nắm được các hình ảnh, chi tiết nghệ thuật tiêu biểu nhất. 
Việc giúp học sinh tiếp nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, hướng dẫn các em phát hiện những tín hiệu nghệ thuật và đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung, biểu hiện bằng những từ gợi tả, gợi cảm, giúp làm nên vẻ đẹp riêng của từng bài tập đọc. 
8. Tích hợp liên phân môn Tập đọc giúp phát triển vốn từ cho học sinh với kỹ thuật công đoạn và đọc mở rộng.
       Trong chương trình Tiếng Việt lớp 3, phân môn trong Tiếng Việt 3 bao
gồm: Chia sẻ và đọc, Tự đọc sách báo, Viết, Nói và nghe, Đọc, Góc sáng tạo, Tự
đánh giá. Phân môn Đọc giúp học sinh phát triển và nâng cao kỹ năng đọc hiểu
văn bản, giúp các em phát triển ý văn thông qua các văn bản đã đọc hiểu. Bên
cạnh đó việc phân môn Đọc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc rèn luyện
khả năng phân tích, suy luận, cải thiện tư duy logic khi viết đoạn văn từ đó truyền
đạt ý tưởng của mình khi viết đoạn văn một cách sáng tạo và hiệu quả hơn.
Giáo viên giao nhiệm vụ đọc mở rộng. Từ tiết học trước, tôi giao nhiệm vụ cho học sinh tìm kiếm và đọc những câu chuyện về thiếu nhỉ. Mỗi học sinh đều cần đọc ít nhất 1 truyện. Áp dụng: Tự đọc sách báo “Đọc sách bảo về thiếu nhi” (trang 20 - Tiếng Việt 3).

Khi đọc truyện các em cần lưu ý những vấn đề sau để nâng cao vốn từ
- Nội dung chính của câu chuyện là gì?- Câu chuyện gồm những nhân vật nào? những từ ngữ để miêu tả về nhân. Câu chuyện gồm những sự kiện nào? những từ ngữ dùng để miêu tả sự kiện đó- Trong truyện có những từ vựng nào hay hoặc khó?
- Điểm thú vị của truyện mà em muốn chia sẻ với các bạn .Các em cần ghi lại những thông tin này vào vở soạn bài. Vào tiết học sau tôi sẽ kiểm tra, đồng thời các em cũng sẽ trao đổi với bạn của mình trong thời gian trước khi vào tiết học.
Ở đầu tiết học, tôi sẽ mởi một số học sinh chia sẻ về chuyện của mình cho
cả lớp cùng nghe. Giáo viên áp dụng kỹ thuật công đoạn .Áp dụng: Bài “Bạn mới" (trang 12 - Tiếng Việt 3 tập 1 sách Cánh diều)Tôi chia lớp thành 3 nhóm theo thứ tự chỗ ngồi trên lớp để các em thuận tiện trao đổi với nhau. Sau khi các nhóm đã ổn định, tôi giao nhiệm vụ mỗi nhóm sẽ phụ trách trả lời 1 câu hỏi từ 1 đến 3 vào phiếu học tập của minh. Đối với câu hỏi số 3, tôi sẽ thay thế việc trả lời câu hỏi bằng việc để các học sinh trong nhóm chia sẻ về một người bạn ở trường của mình.



Mỗi nhóm có thời gian 10 phút để thảo luận và trả lời câu hỏi của mình. Trước khi các nhóm bắt đầu thảo luận, tôi sẽ lưu ý các nhóm cần chỉ ra dẫn chứng trong bài đọc, Các nhóm sẽ cần ghi câu trả lời vào phiếu học tập. Sau đó phiếu này sẽ được luân chuyển tử nhóm 1 sang nhóm 2, từ nhóm 2 sang nhóm 3, từ nhóm 3
sang nhóm 1. Mỗi lần luân chuyển các nhóm sẽ có 2 phút để ghi kết quả thảo
luận của nhóm mình. Liên tục luân chuyển liên tục như vậy 3 lần, đến khi phiếu
học tập của nhóm 1 quay trở lại với nhóm 1, các em sẽ có đầy đủ 3 câu trả lời.
Sau đó nhóm 1 sẽ nhận xét và điều chỉnh (nếu có) đối với các câu trả lời của
nhóm bạn.

III . KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1 . Kết quả sau khi áp dụng biện pháp
            Với tâm huyết của một GV cùng với sự nỗ lực của từng HS. Do đó  những biện pháp mà tôi đưa ra; tôi và một số đồng nghiệp trong trường cũng như ở các trường lân cận đã áp dụng và đạt được kết quả tương đối cao. Cụ thể kết quả ở lớp tôi như sau:
Kết quả khảo sát:
 

Lớp

 số
   Luyện phát âm Ngắt giọng Nhấn giọng Đọc lưu loát, trôi chảy biết nhấn giọng  
Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng  
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
3C 37 33 89.2 4 10.8 31 83.8 6 16.2 29 78.4 8 21.6 24 64.8 13 35.2
                                     
           - Nâng cao được trình độ của giáo viên: Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham khảo các tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa để dạy phù hợp với trình độ của học sinh. Đặc biệt trong khi dạy phân môn Tập đọc nói chung với các phân môn khác trong trường Tiểu học nói chung, người giáo viên cần phải có tính kiên trì, tỉ mỉ, có cách giảng truyền cảm để hướng dẫn các em cặn kẽ từng bài, từng phân môn, thu hút sự hứng thú học tập của  học sinh. Qua đó giáo viên được tư duy khoa học, tạo niềm say mê đối với nghề nghiệp của người giáo viên.
           - Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Dạy Tập đọc theo hướng này giúp các em khắc phục được tật nói ngọng, phát âm sai, sai về ngắt nhịp, đọc chưa hay, chưa diễn cảm. Khuyến khích các em ôn luyện tích cực, kích thích hứng thú học tập của các em. Như vậy các em nắm được cách đọc, cách ngắt nhịp chính xác nên số học sinh đọc đúng, diễn cảm nhiều lên, số học sinh đọc sai lỗi ít đi rõ rệt. Các em thực sự có ý thức trong giờ học, hăng hái giơ tay để luyện đọc, để nêu kết quả việc làm của mình. Một số học sinh trung bình, nếu các em không có khả năng đọc hay thì các em cũng có khả năng đọc đúng, đọc trôi chảy bài văn, bài thơ. Thông qua tiết dạy tôi thấy: Đây là một cách thức tích cực giúp cho học sinh say sưa và tự giác học tập, rèn cho các em có thói quen bạo dạn, tự nhiên thể hiện được tình cảm của mình trước tập thể. Số học sinh đọc đúng tăng lên, số học sinh đọc ngọng (rất ít), số học sinh đọc ngắt giọng, nhấn giọng và diễn cảm tăng lên nhiều. HS nắm vững nội dung bài nhiều hơn trước.
           2 . Kết luận.
  Trong giao tiếp, trong học tập, trong công tác hàng ngày, con  người luôn phải học hỏi, tiếp thu nền văn minh của xã hội loài người. Trong kinh nghiệm cuộc sống, những thành tựu về văn hóa, khoa học, xã hội những tư tưởng tình cảm của các thế hệ đi trước và của xã hội đương thời thì phần lớn đơn vị ghi lại bằng chữ viết. Do vậy nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không có niềm vui, hạnh phúc với đúng nghĩa của nó trong xã hội hiện tại. Chính vì vậy dạy học là một việc làm vô cùng quan trọng ở Tiểu học, trong các giờ học của các môn học nói chung và ở phân môn Tập đọc nói riêng việc đọc đúng, hay cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi có đọc được thì học sinh mới có thể học các môn khác.
   Để học sinh có khả năng đọc đúng, hay, diễn cảm thì người giáo viên phải dạy cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm ngay từ những lớp đầu cấp. Nhưng không phải bằng cách tăng thời gian luyện đọc mà coi trọng chất lượng đọc, mà phải xác định nội dung đọc, hiểu như nhau. Xác định được ngữ liệu nội dung từng đoạn của bài để xác định các yếu tố nghệ thuật và giá trị của chúng trong diễn đạt nội dung. Giáo viên phải là người đọc mẫu chuẩn, hay. Dạy phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẹ nhàng.Việc đưa ra hệ thống phiếu bài tập phải đảm bảo các yêu cầu, phải thực hiện được mục đích, học sinh phải chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và trong học tập. Khi giảng dạy cần chú ý đến nội dung bài tập đọc, nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, góp phần lớn vào mục tiêu giáo dục Tiểu học.
         Việc rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 3 cần được thực hiện một cách bài bản và liên tục. Bằng cách áp dụng các phương pháp phù hợp, giáo viên có thể giúp học sinh nâng cao khả năng đọc, từ đó hỗ trợ quá trình học tập và phát triển tư duy của các em.
3. Kiến nghị, đề xuất
- Đối với nhà trường
 Đầu tư thêm tài liệu, tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm phát triển thói quen đọc sách cho học sinh.
Trang bị đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất: bảng, bàn ghế, tivi, mạng Internet, tài liệu, đồ dùng dạy học, …
Tổ chức các hoạt động ngoại khoá .Có kế hoạch chỉ đạo thi đọc diễn cảm , đặt câu hay theo từng chủ điểm ở các khối lớp, nhằm phát triển thói quen đọc sách cho học sinh.
- Đối với giáo viên:
Cần áp dụng linh hoạt các phương pháp rèn luyện kỹ năng đọc trong giảng dạy.
+ Khi dạy phân môn Tập đọc người giáo viên cần chú ý coi trọng quan điểm dạy học “phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm”. Giọng đọc phải truyền cảm thể hiện đúng ngữ liệu.
          + Giáo viên phải thường xuyên học tập, nâng cao nghiệp vụ, trình độ chuyên môn, năng lực sáng tạo, nắm chắc khả năng nhận thức của từng đối tượng học sinh để có phương pháp và hình thức giảng dạy cho phù hợp. Kết hợp triệt để và hiệu quả các đối tượng giáo dục: học sinh với học sinh, nhà trường và gia đình.
+ Giáo viên cần xây dựng nề nếp học tập cho học sinh ngay từ đầu năm học.
+ Giáo viên cần chú ý đến công tác chuẩn bị tốt cho các tiết học.
- Đối với phụ huynh: Khuyến khích và tạo điều kiện để con đọc sách tại nhà.
- Đối với học sinh:
+ Học sinh phải tích cực học tập, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Chuẩn bị đầy đủ SGK và đồ dung học tập của các môn học.
+ Tích cực tham gia các hoạt động trên lớp, rèn luyện cho mình phương pháp học tập tích cực, bản lĩnh tự tin, biết ứng xử thông minh các tình huống trong cuộc sống.
      Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3. Tôi mạnh dạn trình bày và mong nhận  được sự góp ý, bổ sung của cấp trên để các biện pháp phong phú hơn, thiết thực hơn và bổ ích hơn.
                                                                     Tôi xin chân thành cảm ơn !




 
  Thông tin chi tiết
Tên file:
Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
Phiên bản:
N/A
Tác giả:
Nguyễn Thị Hoài
Website hỗ trợ:
N/A
Thuộc chủ đề:
Sáng kiến kinh nghiệm
Gửi lên:
26/03/2025 04:22
Cập nhật:
26/03/2025 04:22
Người gửi:
thcongthanh2
Thông tin bản quyền:
N/A
Dung lượng:
609.02 KB
Xem:
13
Tải về:
0
  Tải về
Từ site Trường Tiểu Học Công Thành 2 - Yên Thành - Nghệ An:
   Đánh giá
Bạn đánh giá thế nào về file này?
Hãy click vào hình sao để đánh giá File

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây